Bài học về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Thắng lợi vĩ đại này là kết quả của đường lối cách mạng đúng đắn, nghệ thuật lãnh đạo và sự chuẩn bị chu đáo của Đảng và còn là minh chứng sinh động cho sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc.

Uy tín của Đảng là yếu tố tiên quyết phát huy sức mạnh dân tộc

TS Nguyễn Thị Ánh, Phó Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương cho rằng, Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là kết quả cuộc đấu tranh của hơn 20 triệu người Việt Nam yêu nước là lực lượng cách mạng nhân dân, trong đó động lực cách mạng chủ yếu là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Liên minh công - nông được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng, đến đỉnh cao là Tổng khởi nghĩa thì đã lớn mạnh vượt bậc. Dựa trên nền tảng của khối liên minh này, Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên lực lượng toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi. Mặt khác, trên cơ sở nhắm đúng mục tiêu chiến lược hàng đầu của cách mạng và khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám đã quy tụ được sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, phát huy tinh thần quật khởi giành thắng lợi tổng khởi nghĩa trong một thời gian ngắn.

Kế thừa, phát huy tinh thần quật khởi, nắm vững nghệ thuật chọn đúng thời cơ, khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn của Đảng là những nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nhất là trong các giai đoạn, khúc quanh của lịch sử.

Mít tinh của hàng vạn quần chúng nhân dân tại quảng trường Nhà hát Lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức, ngày 19/8/1945. Ảnh tư liệu TTXVN
 

Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn, bài học về lãnh đạo phát huy tinh thần quật khởi - sức mạnh của quần chúng nhân dân - sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy, TS Nguyễn Thị Ánh cho rằng thời gian tới cần tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm sau:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Thứ hai, tăng cường tính Đảng trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tập trung lãnh đạo xây dựng nền tảng thể chế.

Thứ ba, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ niềm tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến, sức sáng tạo và tư duy đổi mới, xây dựng và cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước, phát huy mọi tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội, coi phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo là “chìa khóa vàng” làm động lực đột phá thúc đẩy đổi mới toàn diện đất nước.

“Tình hình mới đòi hỏi phải huy động sự vào cuộc quyết tâm của cả hệ thống chính trị, triển khai đồng bộ các giải pháp, phải làm tốt công tác tư tưởng, phát huy tinh thần cống hiến hy sinh cho sự phát triển chung của đất nước, theo đó cần sự nêu gương, trách nhiệm cao của mọi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp và các tầng lớp nhân dân. Lịch sử cách mạng đã cho thấy uy tín, năng lực và vai trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố tiên quyết trong khơi dậy và phát huy tinh thần quật khởi của dân tộc, phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại, huy động sự chung tay hành động vì lợi ích chung, tập hợp các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đoàn kết thống nhất tiếp tục nỗ lực phấn đấu để đạt được những kỳ tích mới trong tương lai, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - hòa bình, phát triển, hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc”, TS Nguyễn Thị Ánh nêu ý kiến.

Cùng chung ý kiến, PGS.TS Đỗ Xuân Tuất, Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng khẳng định, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi của sức mạnh quật khởi của toàn dân tộc do Đảng lãnh đạo. Từ việc thành lập Mặt trận Việt Minh năm 1941 - một sáng tạo chính trị của Đảng để quy tụ sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp giải phóng đất nước - cho đến chiến lược xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân” hiện nay, tư tưởng nhất quán và xuyên suốt của Đảng là: Coi nhân dân là trung tâm, “dân là gốc”, là chủ thể của mọi quá trình cách mạng. Đây không chỉ là một nguyên lý chính trị mà còn là bài học thực tiễn có tính thời đại.

Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) thành lập ngày 22/12/1944. Ảnh tư liệu.
 

 Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no, tự do của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”. Dựa vào dân, đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân hạnh phúc - Đó chính là nguyên lý bất biến làm nên sức mạnh trường tồn của cách mạng Việt Nam, là chìa khóa để vượt qua mọi thử thách và phát triển bền vững trong tương lai. Phát huy vai trò của nhân dân - thế trận lòng dân - là “quốc bảo” và “pháp bảo” để đất nước phát triển hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới.

Đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng ở khẩu hiệu mà biến thành sức mạnh sống động chảy trong từng hành động

TS Lê Mậu Nhiệm, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phân tích, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là đỉnh cao của phong trào cách mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, thể hiện sâu sắc sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là chủ trương chiến lược mà còn được thể hiện sinh động, cụ thể trong từng hành động, phong trào của quần chúng, các lực lượng chính trị, quân sự và xã hội. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc qua mấy điểm sau đây:

Trước hết, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được thể hiện qua sự tham gia rộng khắp của các tầng lớp nhân dân.

Thứ hai, tinh thần đoàn kết được thể hiện qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chính trị, quân sự và nhân dân.

Thứ ba, tinh thần hy sinh, đồng lòng vì độc lập dân tộc là biểu hiện cảm động và cao cả nhất của khối đại đoàn kết.

Đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là một khẩu hiệu chính trị mà là một sức mạnh hiện thực, có khả năng chuyển hóa thành hành động cách mạng, thành lực lượng vật chất để tạo nên thắng lợi vĩ đại.

Thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chứng minh rằng: Khi toàn dân tộc đoàn kết một lòng, không có thế lực nào có thể ngăn cản bước tiến cách mạng. Việc củng cố và phát huy tinh thần đoàn kết không chỉ nhằm xây dựng khối thống nhất chính trị - xã hội, mà còn để hình thành năng lực tự cường, bản lĩnh dân tộc, đủ sức ứng phó với mọi khó khăn, thách thức trong thời đại mới.

Trong Cách mạng Tháng Tám, Mặt trận Việt Minh là biểu hiện tiêu biểu cho vai trò hạt nhân quy tụ sức mạnh toàn dân. Trong giai đoạn hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội như Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Cựu Chiến binh,… chính là cánh tay nối dài của Đảng trong việc phát huy tinh thần đại đoàn kết. Từ hoạt động thực chất, phong phú và sáng tạo của các tổ chức quần chúng, tinh thần đoàn kết sẽ được lan tỏa mạnh mẽ, chuyển hóa thành sức mạnh vật chất trong thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước.

Cách mạng Tháng Tám thành công bởi vì Việt Minh đã tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tạo sự đồng thuận về mục tiêu chung: Giành độc lập dân tộc. Ngày nay, xã hội Việt Nam ngày càng đa dạng về thành phần, trình độ, quan điểm và lợi ích. Vì vậy, việc xây dựng khối đại đoàn kết cần đi đôi với cơ chế đối thoại dân chủ, minh bạch thông tin và chính sách công bằng. Đoàn kết không có nghĩa là đồng hóa, mà là gắn kết dựa trên sự tin cậy, thấu hiểu và chia sẻ mục tiêu phát triển đất nước bền vững, công bằng.

Đoàn kết chính là "tấm khiên" vững chắc chống lại mọi âm mưu phá hoại. Các thế lực thù địch thường lợi dụng dân chủ, tôn giáo, sắc tộc để chia rẽ đoàn kết dân tộc. Khi chúng ta tạo dựng được niềm tin giữa nhân dân với Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị sẽ xây dựng thế trận lòng dân vững chắc và người dân không bị kẻ thù lôi kéo, kích động.

“Cách mạng Tháng Tám là kết quả của một quá trình giáo dục và truyền lửa cách mạng kiên trì trong quần chúng nhân dân, đặc biệt là thế hệ thanh niên, trí thức, nông dân yêu nước. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế sâu rộng, thì việc giữ gìn và phát huy tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân, đặc biệt trong giới trẻ, lại càng trở nên cấp thiết. Khi mỗi cá nhân thấm nhuần tinh thần yêu nước và ý thức cộng đồng, thì đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ là khẩu hiệu, mà là sức mạnh sống động chảy trong từng hành động, từng quyết sách và từng đóng góp cụ thể cho sự nghiệp chung của quốc gia - dân tộc”, TS Lê Mậu Nhiệm nhận định.

Theo VOV

Link: https://vov.vn/chinh-tri/bai-hoc-ve-xay-dung-khoi-dai-doan-ket-dan-toc-trong-cach-mang-thang-tam-post1223778.vov

Lượt xem: 13

Xem nhiều nhất

Chủ tịch Hồ Chí Minh và hành trình hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do

Thông tin tuyên truyền 1 ngày trước

“Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi”Tới tận 49 năm sau sự kiện ngày 5/6/1911- ngày thầy giáo Nguyễn Tất Thành quyết định rời bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước, thi sĩ Chế Lan Viên mới viết nên những vần thơ ấy. Nhưng dường như, vị triết gia của làng thơ Việt Nam đã cảm thấu được phần nào tâm trạng rối bời của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ngày đó. Chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp ở khách sạn Carlton tại nước Anh, năm 1913Đọc thêm về những chia sẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, như lần Người trả lời một nhà báo Mỹ để thấy rõ hơn tâm trạng và nguyên cớ khiến Người quyết định rời đất mẹ ra đi tìm con đường mới cho dân tộc mình: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.Câu nói đượm buồn của người cha Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc: “Tìm thăm cha là tốt, nhưng cái cần hơn vẫn là tìm đường cứu dân tộc”... càng khiến chàng thanh niên yêu nước ngày đó quyết tìm mọi cách để biến hoài bão thành hiện thực.Dù hành trang chỉ là hai bàn tay trắng, chàng trai yêu nước Nguyễn Tất Thành vẫn quyết chí ra đi. Ngày 5/6/1911, trên tàu đô đốc Latouche Treville rời cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi Marseille (Pháp), có mặt người phụ bếp trẻ tên Văn Ba. Người phụ bếp ấy chính là chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành và ngày 5/6 là ngày người thanh niên ấy bắt đầu hành trình đi tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.3 thập kỷ bôn ba, đốt lò, quét tuyết, phụ bếp… quyết tìm ra con đường sáng. Trang sổ lương của các thủy thủ tàu Amiral Latouche Tréville năm 1911, thủy thủ mang tên Văn Ba là Chủ tịch Hồ Chí Minh sau nàyKhông ai, có lẽ ngay cả người thanh niên Nguyễn Tất Thành có thể ngờ rằng, phải mất tới tròn 3 thập kỷ (1911-1941), Người mới có thể trở về với Tổ quốc. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Người, như một chuyên gia nhìn nhận, đó đã là “Cuộc hành trình của đời người”. 30 năm trên đất khách quê người là 30 năm người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành phải nếm trải trọn vẹn đủ mùi cơ cực. Người đã đi khắp các châu lục, qua gần 30 quốc gia, trải qua tới gần 20 nghề cực nhọc khác nhau để kiếm sống. Như hồi giữa năm 1913, tại nước Anh, Nguyễn Tất Thành vừa phải cào tuyết cho một trường học, đốt than dưới hầm lò, làm việc ở khách sạn Drayton Court rồi làm phụ bếp trong khách sạn Carlton. Tại Pháp năm 1917, Người cũng phải trải qua nhiều nghề để kiếm sống, khi thì làm thuê cho một hiệu ảnh, khi thì vẽ thuê cho một xưởng "đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa".Không chỉ bội phần vất vả mà còn hiểm nguy trăm bề. Tại Pháp những năm 1920 là vòng vây dòm ngó của mật thám. Từ giữa năm 1931 đến năm 1933, Nguyễn Ái Quốc bị thực dân Anh bắt giam. Đầu năm 1934 sau khi thoát khỏi nhà tù, Người trở lại Moskva. Khoảng thời gian gần 5 năm (1934-1938), Người phải sống trong bầu không khí nghi ngờ bao trùm, trong những xáo động của Quốc tế cộng sản... Nguyễn Ái Quốc giảng bài tại lớp huấn luyện cán bộ cách mạng tại Quảng Châu (Trung Quốc) - Ảnh chụp lại tranhTuy nhiên, với Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc, những sự vất vả, gian truân ấy đều đáng giá. Khó khăn gian khổ càng làm cho Người thêm vững vàng, tôi luyện, hun đúc thêm lòng yêu nước kiên định mục tiêu giải phóng dân tộc, càng cổ vũ Người dành thời gian tự học, tự trau dồi tri thức và ngoại ngữ. “Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước”, ấp ủ sôi sục trong tâm trí Người luôn là “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”.Cũng từ niềm ấp ủ, quyết tâm cháy bỏng ấy, rất nhiều bước ngoặt lớn đã mở ra trên hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc: Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917); tham gia Đảng Xã hội Pháp (1919); thảo bản Yêu sách của nhân dân An Nam, ký tên Nguyễn Ái Quốc, gửi tới Hội nghị Versailles. Đặc biệt, sự kiện vô cùng quan trọng làm chuyển biến cơ bản nhận thức con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc là ngày 16 và 17/7/1920, qua báo Nhân đạo (L'Humanité) Pháp, Người được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”- sau này Người kể lại. Từ ngày 25 đến ngày 30/12/1920, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông DươngTừ giây phút ấy, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Những năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc nỗ lực truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc cũng tranh thủ tham dự nhiều hội nghị quốc tế lớn như Đại hội I Quốc tế Nông dân, Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội IV Quốc tế Thanh niên…Tại diễn đàn các đại hội, Người đã nói lên tiếng nói của nhân dân thuộc địa bảo vệ những luận điểm đúng đắn của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, và tuyên truyền những tư tưởng cách mạng của mình trên lập trường Mác-xít. Đặc biệt, trong thời gian này, Người tập trung vào chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức để xúc tiến cho sự ra đời của một chính Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam. Ngày 11/11/1924, Người về đến Quảng Châu, Trung Quốc, mở lớp huấn luyện chính trị, thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1925, sáng lập báo Thanh niên tháng 6/1925 tuyên truyền về chủ nghĩa cộng sản, về Đảng Cộng sản, về Cách mạng Tháng Mười Nga, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh đầu năm 1927... Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã nhất trí thành lập một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản yêu sách Tám điểm của nhân dân Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc và nhóm người Việt Nam yêu nước gửi Nghị viện Pháp và các đoàn đại biểu dự Hội nghị Vécxây (6/1919)Cuộc trở về bí mật và bản Tuyên ngôn giữa Ba Đình nắngTìm ra con đường cứu nước đã khó, để đi đến đích của con đường ấy, để gặt hái được thành quả là độc lập, tự do cho nhân dân, cho dân tộc còn khó hơn. Nhưng có lẽ với Nguyễn Ái Quốc, khó đến mấy nhưng nếu giành được độc lập tự do cho đồng bào thì cũng phải hành động. Bởi thế, ngay từ những năm 1930, Người đã nhiều lần nhấn mạnh: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập". Đặc biệt, sự kiện Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức (tháng 6/1940) theo Người nhận định “là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước để tranh thủ nắm thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”.Mấy tháng sau đó, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa I) của Đảng. Hội nghị xác định rõ: “Nhiệm vụ trước hết của Cách mạng Việt Nam lúc này là phải giành cho được độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho đồng bào”. Ngày 28/1/1941 (tức mồng 2 Tết Tân Tỵ), Người trở về Tổ quốc sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tranh: Trịnh Phòng30 năm bôn ba, cơ cực, với bản lĩnh thép và quyết tâm mãnh liệt, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã trở thành nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc, đã tìm thấy ánh sáng cho con đường cứu nước, tìm ra hướng đi cho cách mạng Việt Nam.Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền. 23 giờ ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Chiều ngày 16/8/1945, một đơn vị quân giải phóng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho cách mạng Tháng Tám. Và chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945 trở thành ngày lịch sử đáng nhớ nhất của dân tộc Việt Nam: Tại Quảng trường Ba Đình tràn ngập nắng thu, trước gần 1 triệu đồng bào. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, khẳng định: Nước Việt Nam có quyền được hưởng độc lập, tự do.Ngày 2/9/1945 trở thành ngày lịch sử đáng nhớ nhất của dân tộc Việt Nam: Tại Quảng trường Ba Đình tràn ngập nắng thu, trước gần 1 triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, khẳng định nước Việt Nam có quyền được hưởng độc lập, tự do.30 năm bôn ba để rồi tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc, 5 năm trở về để rồi gây dựng thành công phong trào cách mạng, tổng khởi nghĩa, giành chính quyền thành công, mang lại độc lập tự do cho đất nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đi trọn hành trình vĩ đại “đi tìm hình của nước”. Non sông gấm hoa, độc lập tự do nhờ ơn Người.Theo VOVLink: https://vov.vn/chinh-tri/chu-tich-ho-chi-minh-va-hanh-trinh-hien-thuc-hoa-khat-vong-doc-lap-tu-do-post1225710.vov