Chủ tịch Hồ Chí Minh và hành trình hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do

“Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi" - đã là khát vọng cháy bỏng, lớn nhất, xuyên suốt trong cuộc đời gần 80 năm vì nước vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trọn vẹn cả cuộc đời cách mạng của Người là hành trình vĩ đại hiện thực hoá bằng được khát vọng độc lập, tự do ấy.

“Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi”

Tới tận 49 năm sau sự kiện ngày 5/6/1911- ngày thầy giáo Nguyễn Tất Thành quyết định rời bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước, thi sĩ Chế Lan Viên mới viết nên những vần thơ ấy. Nhưng dường như, vị triết gia của làng thơ Việt Nam đã cảm thấu được phần nào tâm trạng rối bời của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ngày đó.


 

Chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp ở khách sạn Carlton tại nước Anh, năm 1913

Đọc thêm về những chia sẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, như lần Người trả lời một nhà báo Mỹ để thấy rõ hơn tâm trạng và nguyên cớ khiến Người quyết định rời đất mẹ ra đi tìm con đường mới cho dân tộc mình: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.

Câu nói đượm buồn của người cha Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc: “Tìm thăm cha là tốt, nhưng cái cần hơn vẫn là tìm đường cứu dân tộc”... càng khiến chàng thanh niên yêu nước ngày đó quyết tìm mọi cách để biến hoài bão thành hiện thực.

Dù hành trang chỉ là hai bàn tay trắng, chàng trai yêu nước Nguyễn Tất Thành vẫn quyết chí ra đi. Ngày 5/6/1911, trên tàu đô đốc Latouche Treville rời cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi Marseille (Pháp), có mặt người phụ bếp trẻ tên Văn Ba. Người phụ bếp ấy chính là chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành và ngày 5/6 là ngày người thanh niên ấy bắt đầu hành trình đi tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.

3 thập kỷ bôn ba, đốt lò, quét tuyết, phụ bếp… quyết tìm ra con đường sáng.


 

Trang sổ lương của các thủy thủ tàu Amiral Latouche Tréville năm 1911, thủy thủ mang tên Văn Ba là Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này

Không ai, có lẽ ngay cả người thanh niên Nguyễn Tất Thành có thể ngờ rằng, phải mất tới tròn 3 thập kỷ (1911-1941), Người mới có thể trở về với Tổ quốc. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Người, như một chuyên gia nhìn nhận, đó đã là “Cuộc hành trình của đời người”. 30 năm trên đất khách quê người là 30 năm người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành phải nếm trải trọn vẹn đủ mùi cơ cực. Người đã đi khắp các châu lục, qua gần 30 quốc gia, trải qua tới gần 20 nghề cực nhọc khác nhau để kiếm sống. Như hồi giữa năm 1913, tại nước Anh, Nguyễn Tất Thành vừa phải cào tuyết cho một trường học, đốt than dưới hầm lò, làm việc ở khách sạn Drayton Court rồi làm phụ bếp trong khách sạn Carlton. Tại Pháp năm 1917, Người cũng phải trải qua nhiều nghề để kiếm sống, khi thì làm thuê cho một hiệu ảnh, khi thì vẽ thuê cho một xưởng "đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa".

Không chỉ bội phần vất vả mà còn hiểm nguy trăm bề. Tại Pháp những năm 1920 là vòng vây dòm ngó của mật thám. Từ giữa năm 1931 đến năm 1933, Nguyễn Ái Quốc bị thực dân Anh bắt giam. Đầu năm 1934 sau khi thoát khỏi nhà tù, Người trở lại Moskva. Khoảng thời gian gần 5 năm (1934-1938), Người phải sống trong bầu không khí nghi ngờ bao trùm, trong những xáo động của Quốc tế cộng sản...


 

Nguyễn Ái Quốc giảng bài tại lớp huấn luyện cán bộ cách mạng tại Quảng Châu (Trung Quốc) - Ảnh chụp lại tranh

Tuy nhiên, với Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc, những sự vất vả, gian truân ấy đều đáng giá. Khó khăn gian khổ càng làm cho Người thêm vững vàng, tôi luyện, hun đúc thêm lòng yêu nước kiên định mục tiêu giải phóng dân tộc, càng cổ vũ Người dành thời gian tự học, tự trau dồi tri thức và ngoại ngữ. “Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước”, ấp ủ sôi sục trong tâm trí Người luôn là “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”.

Cũng từ niềm ấp ủ, quyết tâm cháy bỏng ấy, rất nhiều bước ngoặt lớn đã mở ra trên hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc: Cách mạng Tháng Mười Nga thành công (1917); tham gia Đảng Xã hội Pháp (1919); thảo bản Yêu sách của nhân dân An Nam, ký tên Nguyễn Ái Quốc, gửi tới Hội nghị Versailles. Đặc biệt, sự kiện vô cùng quan trọng làm chuyển biến cơ bản nhận thức con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc là ngày 16 và 17/7/1920, qua báo Nhân đạo (L'Humanité) Pháp, Người được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”- sau này Người kể lại.


 

Từ ngày 25 đến ngày 30/12/1920, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương

Từ giây phút ấy, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Những năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc nỗ lực truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc cũng tranh thủ tham dự nhiều hội nghị quốc tế lớn như Đại hội I Quốc tế Nông dân, Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội IV Quốc tế Thanh niên…

Tại diễn đàn các đại hội, Người đã nói lên tiếng nói của nhân dân thuộc địa bảo vệ những luận điểm đúng đắn của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, và tuyên truyền những tư tưởng cách mạng của mình trên lập trường Mác-xít. Đặc biệt, trong thời gian này, Người tập trung vào chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức để xúc tiến cho sự ra đời của một chính Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam. Ngày 11/11/1924, Người về đến Quảng Châu, Trung Quốc, mở lớp huấn luyện chính trị, thành lập tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1925, sáng lập báo Thanh niên tháng 6/1925 tuyên truyền về chủ nghĩa cộng sản, về Đảng Cộng sản, về Cách mạng Tháng Mười Nga, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh đầu năm 1927... Khi điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Hương Cảng (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã nhất trí thành lập một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.


 

Bản yêu sách Tám điểm của nhân dân Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc và nhóm người Việt Nam yêu nước gửi Nghị viện Pháp và các đoàn đại biểu dự Hội nghị Vécxây (6/1919)

Cuộc trở về bí mật và bản Tuyên ngôn giữa Ba Đình nắng

Tìm ra con đường cứu nước đã khó, để đi đến đích của con đường ấy, để gặt hái được thành quả là độc lập, tự do cho nhân dân, cho dân tộc còn khó hơn. Nhưng có lẽ với Nguyễn Ái Quốc, khó đến mấy nhưng nếu giành được độc lập tự do cho đồng bào thì cũng phải hành động. Bởi thế, ngay từ những năm 1930, Người đã nhiều lần nhấn mạnh: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập". Đặc biệt, sự kiện Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức (tháng 6/1940) theo Người nhận định “là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước để tranh thủ nắm thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”.

Mấy tháng sau đó, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định trở về nước, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa I) của Đảng. Hội nghị xác định rõ: “Nhiệm vụ trước hết của Cách mạng Việt Nam lúc này là phải giành cho được độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho đồng bào”.


 

Ngày 28/1/1941 (tức mồng 2 Tết Tân Tỵ), Người trở về Tổ quốc sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tranh: Trịnh Phòng

30 năm bôn ba, cơ cực, với bản lĩnh thép và quyết tâm mãnh liệt, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã trở thành nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc, đã tìm thấy ánh sáng cho con đường cứu nước, tìm ra hướng đi cho cách mạng Việt Nam.

Tháng 8/1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền. 23 giờ ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Chiều ngày 16/8/1945, một đơn vị quân giải phóng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên, mở đầu cho cách mạng Tháng Tám. Và chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945 trở thành ngày lịch sử đáng nhớ nhất của dân tộc Việt Nam: Tại Quảng trường Ba Đình tràn ngập nắng thu, trước gần 1 triệu đồng bào. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, khẳng định: Nước Việt Nam có quyền được hưởng độc lập, tự do.

Ngày 2/9/1945 trở thành ngày lịch sử đáng nhớ nhất của dân tộc Việt Nam: Tại Quảng trường Ba Đình tràn ngập nắng thu, trước gần 1 triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, khẳng định nước Việt Nam có quyền được hưởng độc lập, tự do.

30 năm bôn ba để rồi tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc, 5 năm trở về để rồi gây dựng thành công phong trào cách mạng, tổng khởi nghĩa, giành chính quyền thành công, mang lại độc lập tự do cho đất nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đi trọn hành trình vĩ đại “đi tìm hình của nước”. Non sông gấm hoa, độc lập tự do nhờ ơn Người.

Theo VOV

Link: https://vov.vn/chinh-tri/chu-tich-ho-chi-minh-va-hanh-trinh-hien-thuc-hoa-khat-vong-doc-lap-tu-do-post1225710.vov

Lượt xem: 13

Xem nhiều nhất

Không có gì quý hơn độc lập, tự do: Nguồn động lực để đất nước vươn mình

Thông tin tuyên truyền 1 ngày trước

"Không có gì quý hơn độc lập, tự do" - câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vang lên giữa những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, không chỉ là khẩu hiệu chiến đấu, mà là một định đề chính trị, một hệ giá trị tư tưởng và một bản lĩnh quốc gia. Trong bối cảnh đất nước tiếp tục chuyển mình mạnh mẽ trước làn sóng toàn cầu hóa, chuyển đổi số và cạnh tranh địa chính trị – địa kinh tế phức tạp, tư tưởng này tiếp tục là nền tảng để định hình đường lối phát triển của Việt Nam hiện đại. Tư tưởng khởi nguồn từ thực tiễn lịch sử và bản lĩnh dân tộcKhông đơn thuần là một khẩu hiệu, câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là sự kết tinh của lịch sử dân tộc và tư duy cách mạng Hồ Chí Minh – một tư tưởng được hun đúc từ thực tiễn đau thương, khát vọng giải phóng và tinh thần làm chủ vận mệnh của nhân dân Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm bị đô hộ và chia cắt, dân tộc ta đã khẳng định một chân lý: Quyền được làm chủ vận mệnh dân tộc và quyền sống có phẩm giá là điều thiêng liêng nhất. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh tư liệuChủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã trải qua 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước chính là hiện thân tiêu biểu của tư tưởng đó. Từ bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Versailles năm 1919, cho đến bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1945, rồi đến lời hiệu triệu kháng chiến chống Mỹ năm 1966, có thể thấy rằng tư tưởng về độc lập – tự do là trục xuyên suốt, nhất quán và ngày càng được cụ thể hóa theo từng thời kỳ. Chính sự gắn bó giữa lý tưởng và thực tiễn ấy đã tạo nên sức mạnh thuyết phục sâu rộng của tư tưởng Hồ Chí Minh – không chỉ với nhân dân Việt Nam, mà còn với bạn bè quốc tế, những ai yêu chuộng hòa bình và công lý.Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa đơn thuần, mà còn thể hiện một tầm nhìn nhân văn, tiến bộ và toàn diện. Hồ Chí Minh không đối lập giữa độc lập dân tộc và tự do cá nhân, ngược lại, Người coi đó là hai mặt của một giá trị thống nhất. Khi khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan điểm đi trước thời đại, vượt lên trên nhiều mô hình cách mạng vốn chỉ dừng lại ở thay đổi thể chế mà không đặt con người làm trung tâm.Trong quan niệm của Người, độc lập không thể tách rời với năng lực làm chủ của mỗi cá nhân – từ sinh kế, tri thức, đến quyền phát triển toàn diện. Tự do không phải là khái niệm trừu tượng mà rất cụ thể: “Ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Sự cụ thể ấy chính là điểm khác biệt giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và nhiều lý thuyết mang tính hình thức. Người không chỉ nói về tự do, mà kiến tạo các điều kiện thực chất để nhân dân được sống tự do.Ngọn cờ tư tưởng trong suốt chiều dài cách mạngTư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, kim chỉ nam xuyên suốt chiều dài cách mạng Việt Nam, là động lực và định hướng, dẫn dắt dân tộc ta từ công cuộc giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc đến thời kỳ Đổi mới, hội nhập và khát vọng vươn mình của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.Dưới ánh sáng tư tưởng ấy, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, giành độc lập từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật; đã chiến đấu kiên cường suốt ba thập niên để thống nhất đất nước; và tiếp tục vững bước trong công cuộc Đổi mới từ năm 1986 đến nay.Tư tưởng đó không chỉ là động lực tinh thần, mà còn là điểm tựa để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, xây dựng lực lượng chính trị thống nhất và bền vững, làm nên thắng lợi của mô hình “dân làm gốc”, “lấy dân làm trung tâm”. Đó là nguồn sức mạnh để lớp lớp thanh niên ra trận, để các bà mẹ tiễn con đi chiến đấu mà không đòi hỏi điều kiện nào khác ngoài một khát vọng giản dị: Đất nước được độc lập, nhân dân được tự do.Trong thế kỷ 21, độc lập và tự do không còn chỉ mang nghĩa chống ngoại xâm hay giữ chủ quyền lãnh thổ. Đó còn là năng lực tự chủ trong phát triển, là quyền hoạch định con đường tương lai của quốc gia trên nền tảng văn hóa, kinh tế, khoa học – công nghệ. Một đất nước độc lập hôm nay là quốc gia có khả năng định hình thể chế của riêng mình, thiết kế chính sách theo lợi ích dân tộc mà không bị lệ thuộc, đồng thời chủ động hội nhập mà không đánh mất bản sắc.Tự do trong thời đại hiện nay còn gắn liền với tự do tư duy, tự do sáng tạo, tự do khởi nghiệp, tự do học thuật, tự do tiếp cận cơ hội phát triển…, chính là sự tiếp nối và phát triển từ tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” của Hồ Chí Minh. 80 năm sau Cách mạng Tháng Tám, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập – tự do” vẫn soi đường cho đất nước trên hành trình Đổi mới và hội nhập, hội nhập và phát triển trong kỷ nguyên mới.Không phải ngẫu nhiên mà Tổng Bí thư Tô Lâm gần đây nhấn mạnh rằng: Phải đột phá thể chế, pháp luật, khơi thông những điểm nghẽn, giải phóng nguồn lực để đất nước vươn mình. Điều đó cho thấy, tư tưởng độc lập – tự do không chỉ là một lý tưởng tinh thần, mà cần được cụ thể hóa trong khuôn khổ pháp lý, thể chế và chính sách. Cải cách thể chế không đơn thuần là điều chỉnh hành chính, mà là một cuộc giải phóng toàn diện mọi nguồn lực xã hội, tạo điều kiện để mỗi người dân trở thành chủ thể phát triển – đó chính là ý nghĩa sâu xa của tự do trong một nhà nước pháp quyền hiện đại.Di sản trường tồn mãi mãiTư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh là di sản quý báu, là nền tảng tư tưởng – lý luận của Đảng và dân tộc ta. Đó là sự kết tinh của lương tri nhân loại và bản lĩnh dân tộc Việt Nam, là ánh sáng đã soi đường cho cách mạng Việt Nam trong cả thời chiến và thời bình. Tư tưởng ấy không chỉ dừng lại ở các bản văn lịch sử, mà đang sống động trong từng chính sách, từng hành động, từng quyết sách của đất nước.Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 không chỉ là dịp để ôn lại quá khứ hào hùng, mà còn là cơ hội để soi chiếu hiện tại và định hình tương lai từ những giá trị trường tồn. Một quốc gia hiện đại không thể tách rời tinh thần độc lập dân tộc, cũng như một xã hội văn minh không thể tồn tại nếu thiếu tự do và quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, tiếp nối và phát triển tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong điều kiện mới chính là con đường duy nhất để dân tộc Việt Nam phát triển bền vững và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.Theo VOVLink: https://vov.vn/chinh-tri/khong-co-gi-quy-hon-doc-lap-tu-do-nguon-dong-luc-de-dat-nuoc-vuon-minh-post1225348.vov