Quy định mới về điều kiện cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 268/2025/NĐ-CP, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo năm 2025. Nghị định xác định rõ điều kiện, hồ sơ, thẩm quyền và hiệu lực của Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DN KH&CN), nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.

nha-may-vinsmart04d60-176093288007444673842-47-0-1027-1568-crop-1760933093735458022839.jpg

Ảnh VGP

Doanh nghiệp  KH&CN phải đáp ứng điều kiện chung và điều kiện riêng theo quy mô doanh nghiệp

Theo quy định mới, doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận DN KH&CN khi đáp ứng điều kiện chung và điều kiện riêng theo quy mô doanh nghiệp (lớn, vừa, nhỏ và siêu nhỏ).

Điều kiện chung:

1. Được thành lập và đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.

2. Tạo ra sản phẩm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo từ một trong các kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo được sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp, bao gồm:

- Sáng chế; giải pháp hữu ích; kiểu dáng công nghiệp; thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ tại Việt Nam;

- Chương trình máy tính đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả;

- Giống vật nuôi mới; giống cây trồng mới; giống thủy sản mới; giống cây lâm nghiệp mới; tiến bộ kỹ thuật đã được bảo hộ hoặc công nhận;

- Kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được nghiệm thu hoặc xác nhận, công nhận theo quy định pháp luật;

- Công nghệ nhận chuyển giao theo hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được đăng ký theo quy định pháp luật về chuyển giao công nghệ.

Điều kiện riêng

Điều kiện đối với doanh nghiệp lớn:

1. Phải có tổng chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt tối thiểu 2% doanh thu thuần bình quân trong 03 năm tài chính liền kề hoặc từ 200 tỷ đồng Việt Nam/năm trở lên trong 03 năm tài chính liền kề; trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 03 năm thì tính bình quân trên toàn bộ thời gian hoạt động kể từ khi thành lập, nhưng không ít hơn 01 năm tài chính đầy đủ;

2. Có bộ phận nghiên cứu và phát triển với tối thiểu 10 nhân lực có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có ít nhất 05 nhân lực là người Việt Nam;

3. Sản phẩm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chiếm tối thiểu 30% tổng doanh thu hoặc đạt từ 90 tỷ đồng Việt Nam/năm trở lên trong 03 năm tài chính liền kề; trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 03 năm thì tính bình quân trên toàn bộ thời gian hoạt động kể từ khi thành lập, nhưng không ít hơn 01 năm tài chính đầy đủ;

4. Sản phẩm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo mang lại một trong các hiệu quả: Được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài; được tạo ra từ công nghệ thuộc Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao theo quy định pháp luật; đạt giải thưởng quốc gia, quốc tế về chất lượng hoặc môi trường.

Điều kiện đối với doanh nghiệp vừa:

1. Phải có tổng chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt tối thiểu 2% doanh thu thuần bình quân trong 03 năm tài chính liền kề; trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 03 năm thì tính bình quân trên toàn bộ thời gian hoạt động kể từ khi thành lập, nhưng không ít hơn 01 năm tài chính đầy đủ;

2. Có bộ phận nghiên cứu phát triển với tối thiểu 05 nhân lực có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có nhân lực là người Việt Nam;

3. Sản phẩm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chiếm tối thiểu 20% tổng doanh thu trong 03 năm tài chính liền kề; trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 03 năm thì tính bình quân trên toàn bộ thời gian hoạt động kể từ khi thành lập, nhưng không ít hơn 01 năm tài chính đầy đủ.

Điều kiện đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ:

1. Phải có tổng chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt tối thiểu 2% doanh thu thuần bình quân trong 03 năm tài chính liền kề; trường hợp doanh nghiệp hoạt động dưới 03 năm thì tính bình quân trên toàn bộ thời gian hoạt động kể từ khi thành lập, nhưng không ít hơn 01 năm tài chính đầy đủ;

2. Có tối thiểu 02 nhân lực hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó có nhân lực là người Việt Nam, hoặc thuê từ 02 chuyên gia trở lên từ cơ sở nghiên cứu, cơ sở đào tạo, tổ chức khoa học và công nghệ;

3. Có ít nhất 01 sản phẩm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đang được thương mại hóa.

Hồ sơ và quy trình cấp Giấy chứng nhận

Doanh nghiệp đủ điều kiện nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận DN KH&CN qua hệ thống dịch vụ công trực tuyến tới Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính.

Hồ sơ gồm:

- Bản chính đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

- Bản sao văn bản công nhận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo: 

+ Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ;

+ Văn bằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ;

+ Quyết định công nhận hoặc tự công bố giống cây trồng, giống vật nuôi, giống thủy sản, giống cây lâm nghiệp mới theo quy định của pháp luật chuyên ngành; quyết định công nhận tiến bộ kỹ thuật;

+ Quyết định công nhận kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo sử dụng ngân sách nhà nước hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo sử dụng ngân sách nhà nước; Giấy xác nhận kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo không sử dụng ngân sách nhà nước;

+ Các văn bản xác nhận, công nhận khác có giá trị pháp lý tương đương.

- Bản chính phương án sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp khoa học và công nghệ chứng minh việc đáp ứng các điều kiện quy định. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan cấp chứng nhận.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan cấp chứng nhận

Theo quy định, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính là cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ, thẩm định và cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ, cấp thay đổi nội dung, cấp lại, thu hồi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thông báo việc cấp, cấp thay đổi, cấp lại, thu hồi, huỷ bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ tới các cơ quan có liên quan đến việc thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Định kỳ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cập nhật dữ liệu về việc cấp, cấp thay đổi, cấp lại, thu hồi, huỷ bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ vào Nền tảng số quản lý khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia.Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN có hiệu lực trên toàn quốc, dưới dạng văn bản giấy hoặc điện tử, là căn cứ để doanh nghiệp hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư, thuế, tín dụng và hỗ trợ đổi mới sáng tạo của Nhà nước.

Tạo hành lang pháp lý mới thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Nghị định 268/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 14/10/2025.

Các quy định mới được đánh giá là bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo năm 2025, góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, phân cấp cho địa phương và tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản lý.

Việc ban hành nghị định được kỳ vọng sẽ tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho doanh nghiệp nghiên cứu, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy phát triển hệ sinh thái doanh nghiệp khoa học – công nghệ Việt Nam./.

BBT

Lượt xem: 15

Xem nhiều nhất

'Mô hình dưỡng lão bán trú cần trở thành trụ cột an sinh mới'

Tin trong nước 1 ngày trước

Tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết của Trung ương ngày 16/9, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh sự cần thiết phải có giải pháp "chống cô đơn" cho người cao tuổi. Mô hình trung tâm dưỡng lão ban ngày "là hướng đi đúng, nhưng tiến độ triển khai còn chậm dù đã nhiều lần được đề cập". Ông mong muốn có những mô hình cụ thể, khuyến khích cả tư nhân tham gia thành lập trung tâm chăm sóc người già, vì "buổi sáng con cháu đi học, đi làm, các cụ ở nhà rất cô đơn".Theo người đứng đầu Đảng, các trung tâm có thể tổ chức đưa đón bằng ôtô, tạo điều kiện để người cao tuổi gặp gỡ bạn bè, đồng nghiệp cũ, tham gia sinh hoạt, thể thao, âm nhạc, văn hóa, văn nghệ. "Đây là mô hình rất hay. Vấn đề là Bộ Y tế, Bộ Nội vụ hay Hội Người cao tuổi phải phối hợp phân công để chủ động triển khai. Chăm sóc thiếu nhi quan trọng, nhưng người cao tuổi cũng cần được quan tâm, vì những giải pháp này góp phần kéo dài tuổi thọ, nâng cao chất lượng sống", Tổng Bí thư nhấn mạnh.Tiến sĩ Trương Xuân Cừ, Phó chủ tịch Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam, đồng tình với quan điểm của Tổng Bí thư. Theo ông Cừ, nhu cầu chăm sóc người cao tuổi ngày càng lớn. Truyền thống gia đình tứ đại đồng đường hiện nay giảm đi nhiều do gia đình Việt thường chọn cuộc sống tự chủ và độc lập. Vì thế người cao tuổi ít khi sống cùng con cái.Ông Cừ dẫn số liệu năm 2024 cho biết Việt Nam mới có hơn 300 trung tâm chăm sóc người cao tuổi với khoảng 11.000 người được phục vụ. Trong khi đó, báo cáo điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ cùng năm cho thấy cả nước có khoảng 14,2 triệu người từ 60 tuổi trở lên, dự báo đến năm 2030 sẽ tăng gần 18 triệu.Việc mở các trung tâm chăm sóc ban ngày, theo ông Trương Xuân Cừ, sẽ đỡ tốn kém hơn so với trung tâm chăm sóc cả ngày (nội trú). Mô hình này thu hút được nhiều người cao tuổi tham gia, đặc biệt là những người vẫn còn sức khỏe để tự đi lại. Khi đó, thể trạng sức khỏe của họ sẽ được duy trì và thậm chí còn phát triển tốt hơn, trí tuệ không bị sa sút.Các trung tâm này giúp người cao tuổi có đời sống tinh thần tốt hơn, đáp ứng nhu cầu giao tiếp rất lớn của họ. "Những người cùng lứa tuổi, suy nghĩ được gặp gỡ, chia sẻ, hàn huyên và trao đổi sẽ giúp trẻ hóa cảm xúc, giúp họ cảm thấy ấm áp, yêu quý cuộc sống hơn", ông Cừ nói, nhấn mạnh đây là điều mà con cháu họ rất khó có thể mang đến.Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Xã hội Tạ Văn Hạ cũng nhìn nhận vấn đề dưỡng lão đang được đặt ra rất cấp thiết. Xã hội phát triển, cường độ lao động, làm việc tăng cao cũng khiến người trẻ dành ít thời gian hơn cho bố mẹ, ông bà. "Người già đang phải đối mặt việc thiếu người chăm sóc, bị cô đơn, thậm chí bị bạo hành. Khi không có nơi vui chơi, không có điều kiện tự chăm sóc bản thân, họ dễ phát sinh trầm cảm", đại biểu Hạ nói.Trong khi đó, người già thường có nhiều bệnh nền, sức khỏe, trí tuệ sa sút. Việc tự chăm sóc bản thân đã khó khăn, lại còn bị phụ thuộc khiến họ dễ nảy sinh cảm xúc tiêu cực và tự nghĩ rằng mình là gánh nặng cho con cái. Ngược lại, gia đình Việt Nam vẫn tồn tại suy nghĩ gửi người già vào viện dưỡng lão là bất hiếu, là bỏ rơi bố mẹ. Vì vậy, việc phát triển cơ sở chăm sóc bán thời gian là "vô cùng cần thiết, phù hợp bối cảnh già hóa dân số". Những cơ sở này sẽ giúp người già tránh được cảm giác phụ thuộc, giúp họ được vui chơi, lao động, giao lưu cùng các bạn già.Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Xã hội Tạ Văn Hạ. Ảnh: Hoàng Phong Giáo sư Giang Thanh Long, giảng viên cao cấp Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đánh giá các chủ trương hiện nay tạo nền tảng cho sự thay đổi căn cơ trong chăm sóc sức khỏe, đúng với tiêu chí "3A": từ khả năng tiếp cận, thông qua việc tăng cường y tế cơ sở; đến khả năng chi trả, với trụ cột chính là bảo hiểm y tế; và cung cấp dịch vụ phù hợp, đầy đủ.Báo cáo mới nhất của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho thấy cứ 6 người thì có một người rơi vào tình trạng cô đơn (16,7%), và ở nhóm người cao tuổi tỷ lệ này là 3:1 (cứ 3 người cao tuổi thì có một người cảm thấy cô đơn, tương đương 33,3%). WHO coi cô đơn là vấn đề y tế công cộng toàn cầu, âm thầm hủy hoại sức khỏe thể chất và tinh thần. Khảo sát quốc gia về người cao tuổi tại Việt Nam (VNAS) cũng cho thấy cô đơn làm tăng nguy cơ trầm cảm. Nhóm phụ nữ, người rất cao tuổi và những người sống một mình có tỷ lệ cô đơn cao nhất."Về tâm lý, có lẽ phần lớn người cao tuổi mong muốn được gặp gỡ con cháu hơn là phải sống trong viện dưỡng lão một thời gian dài rồi mới quay về nhà", ông Long nói. Tuy nhiên, nhịp sống hiện đại đã kéo giãn khoảng cách thế hệ. Nhiều người cao tuổi sống chung với con cháu hằng ngày nhưng chưa chắc đã có sự giao tiếp, bởi người trẻ còn bận rộn với nhiều mối quan tâm khác. Bản thân mỗi người cao tuổi cũng mang đặc thù khác nhau về văn hóa, sức khỏe, điều kiện gia đình, nên để chăm sóc hiệu quả cần có một lộ trình lâu dài.Tiến sĩ Trương Xuân Cừ, Phó chủ tịch Trung ương Hội người cao tuổi Việt Nam. Ảnh: Hoàng Phong Xây dựng cơ sở chăm sóc người già tại phường, xãĐại biểu Tạ Văn Hạ cho rằng để thúc đẩy mô hình này phát triển, từng địa phương phải có trách nhiệm xây dựng thiết chế chăm sóc người già tại phường, xã. "Cơ sở vật chất, trụ sở còn dôi dư sau khi sáp nhập là nguồn lực quan trọng, cần được ưu tiên làm địa điểm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi", ông đề xuất.Đồng thời, ông Hạ cũng nhấn mạnh Nhà nước không thể làm một mình, cần có những cơ chế, chính sách để thu hút nguồn lực xã hội hóa từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực này. "Chính phủ cần có một quy hoạch tổng thể hệ thống các trung tâm, câu lạc bộ, các thiết chế dành cho người cao tuổi", ông nêu quan điểm.Giáo sư Giang Thanh Long thì nhận định mô hình trung tâm bảo trợ xã hội hiện nay thường sắp xếp người cao tuổi ở chung với các nhóm khác là chưa phù hợp. Nếu tiếp tục duy trì, cơ quan chức năng cần tạo khu vực riêng biệt để người cao tuổi có không gian nghỉ ngơi. Về lâu dài, mô hình này cần được cải tiến theo hướng lồng ghép chăm sóc sức khỏe người cao tuổi cả về mặt xã hội lẫn y tế.Để thu hút doanh nghiệp tham gia, ông Long cho rằng Nhà nước phải ban hành chính sách rõ ràng về quỹ đất và thuế, đồng thời quy định cụ thể các điều kiện thành lập trung tâm chăm sóc như hạ tầng, trang thiết bị, nhân lực. Tùy khả năng chi trả của người dân, các trung tâm cần đa dạng dịch vụ, từ miễn phí, phí thấp cho đến phí cao. Ông dẫn chứng mô hình Trung Quốc, trong đó nhà nước chỉ quản lý giá cả và dịch vụ, còn việc cung cấp được đấu thầu cho tư nhân. Đơn vị trúng thầu phải cam kết chất lượng dịch vụ, tuân thủ giá, và bị xử phạt nặng nếu vi phạm.Ông Long lưu ý mô hình chăm sóc ban ngày phụ thuộc nhiều vào nhu cầu thực tế của người cao tuổi. Nhiều trung tâm tư nhân trong nước đã áp dụng nhưng không thành công vì khó bố trí nhân viên theo sát hoặc tổ chức ăn ngủ tại cơ sở và số người cao tuổi có đủ sức khỏe để tham gia mô hình này cũng không nhiều. "Để triển khai hiệu quả, địa phương cần có cam kết mạnh mẽ và bố trí ngân sách thường xuyên, chứ không chỉ dừng ở mức hỗ trợ", ông Long nhấn mạnh.Người cao tuổi tại Trung tâm Dưỡng lão Thị Nghè, TP HCM, tháng 2/2024. Ảnh: Quỳnh Trần 'Day centre' cho người giàCác chuyên gia cho biết mô hình trung tâm dưỡng lão bán trú không mới. Ở nhiều quốc gia, nó được gọi là "day centre" hay "adult day care", tức trung tâm chăm sóc ban ngày dành cho người cao tuổi. Tại Anh, các trung tâm cung cấp hoạt động xã hội, văn hóa, thể dục nhẹ, bữa ăn trưa, đồng thời có nhân viên hỗ trợ y tế cơ bản. Nghiên cứu chỉ ra rằng những trung tâm này giúp giảm cảm giác cô đơn, duy trì kết nối xã hội và mang lại sự hỗ trợ tinh thần quan trọng cho người cao tuổi.Tại Mỹ, "adult day care" được phát triển khá rộng rãi không chỉ cho người cao tuổi mà còn cho những người trưởng thành có nhu cầu hỗ trợ đặc biệt như chăm sóc sau tai nạn, tai biến, chấn thương. Nhân viên của trung tâm sẽ làm nhiệm vụ giám sát y tế, sức khỏe, tổ chức hoạt động, phục vụ bữa ăn. Một số nơi có dịch vụ đưa đón tận nhà. Mô hình này giúp các gia đình trì hoãn việc phải đưa cha mẹ vào cơ sở dưỡng lão toàn thời gian, đồng thời giảm bớt áp lực tâm lý và kinh tế. Chi phí vận hành thấp hơn nhiều so với hệ thống chăm sóc nội trú 24/7.Ở châu Á, Singapore là một trong những quốc gia đi đầu với hệ thống "senior activity centres" (trung tâm hoạt động dành cho người cao tuổi) kết hợp chăm sóc ban ngày. Người cao tuổi được tham gia các lớp thể dục, hoạt động nghệ thuật, giao lưu cộng đồng, đồng thời nhận hỗ trợ sức khỏe cơ bản, nhất là với những bệnh mãn tính nhẹ.Trong khi đó, Hà Lan nổi tiếng với ngôi làng "nhân ái" Hogeweyk dành cho những người mất trí nhớ, nơi những cư dân có một cuộc sống giống những người khỏe mạnh bình thường khác thay vì phải điều trị tại bệnh viện.Theo VNELink: https://vnexpress.net/mo-hinh-duong-lao-ban-tru-can-tro-thanh-tru-cot-an-sinh-moi-4940088.html